Họ tiếp tục hát trên những xác người, chối bỏ tội ác, đổ thừa tội phạm, chà đạp lịch sử để tự vinh danh những kẻ sát nhân lẫn một chế độ sát nhân. Và vì thế những tang thương quá khứ đành phải lật lại vì sự thật của lịch sử:
Trần Trung Đạo - Trong lịch sử nhân loại, không có một chủ nghĩa nào tàn bạo hơn chủ nghĩa Cộng Sản. Từ khi Tuyên ngôn đảng cộng sản ra đời năm 1848 cho đến khi bức tường Bá Linh bị đập đổ vào 1989, khoảng gần 100 triệu người từ nhiều quốc gia đã bị giết. Hơn hai mươi năm qua, mặc dù ngọn lửa vô thần đã tắt trên phần lớn quả địa cầu, một góc trời phương đông lửa vẫn còn đỏ rực, nhà tù vẫn còn giam giữ nhiều người bất đồng với chế độ độc tài toàn trị và tự do vẫn là một bóng mây xa.
Người đời có thói quen kết án Stalin đã gây ra tội ác tày trời đối với nhân dân Liên Xô, Mao Trạch Đông đã giết trên 30 triệu nhân dân Trung Quốc và Pol Pot tiêu diệt một phần tư dân tộc Khmer bằng súng và cả bằng dao phay, cán cuốc. Những chuyện đó ngày nay nhân loại đều biết và tội ác của chúng không còn là vấn đề tranh cãi nữa. Tuy nhiên, làm thế nào một nông dân có gốc gác bình thường, nếu không muốn nói là hiền lành như Mao lại có thể trở thành sát nhân của mấy chục triệu dân Trung Quốc? Làm thế nào Pol Pot, con của một điền chủ giàu có, được gởi sang Pháp ăn học, được bạn bè nhớ lại như một người nhã nhặn, lịch sự và được gọi là trí thức trong xã hội Khmer còn chậm tiến lúc bấy giờ, nhưng sau khi nắm chính quyền đã giết hai triệu dân Khmer bằng búa, dao và những cách giết người tàn bạo hơn cả trong thời Trung Cổ?
Bởi vì chủ nghĩa Cộng Sản trang bị cho chúng một quyền lực tuyệt đối, một niềm tin cuối cùng, một lối thoát tinh thần, một chỗ dựa lý luận để giải thích cho hành động bất nhân của chúng. Nuon Chea, người đứng hàng thứ hai của chế độ Khờ Me Đỏ chỉ sau Pol Pot, lạnh lùng trả lời báo chí, những kẻ bị giết chỉ vì “họ là kẻ thù của nhân dân”. Đơn giản vậy thôi. Chúng ăn rất ngon và ngủ rất yên dù sau một ngày ký hàng loạt bản án tử hình.
Giết một vài đối thủ thì không sao nhưng để loại bỏ hàng triệu người là chuyện khác. Stalin không thể lên tận các trại lao động khổ sai ở Siberia để bỏ đói những người chống đối y. Mao Trạch Đông không thể xuống từng trường học để tra tấn các thầy cô trong Cách Mạng Văn Hóa, Hồ Chí Minh không thể đích thân xử bắn bà Nguyễn Thị Năm trong Cải Cách Ruộng Đất. Nhưng họ có khả năng huấn luyện, đầu độc một thế hệ đao phủ thủ trẻ tuổi hăng say và cuồng tín để làm thay. Quyền lực đặt vào tay đám đao thủ phủ trẻ này chẳng khác gì con dao bén để chúng thanh toán những mối thù riêng và lập công dâng Đảng.
Tháng 10 năm 2002, nhà báo Mỹ Amanda Pike đến Campuchia để tìm hiểu nguyên nhân tội ác diệt chủng của Pol Pot đã không được làm sáng tỏ. Amanda Pike phỏng vấn bà Samrith Phum, người có chồng bị Khờ Me Đỏ giết. Theo lời kể của bà Samrith Phum, vào nửa đêm năm 1977 chồng bà bị một Khờ Me Đỏ địa phương bắt đi và giết chết vì bị cho là “gián điệp CIA”. Hung thủ chẳng ai xa lạ mà là người cùng làng với bà Samrith. Hiện nay, kẻ giết người vẫn còn sống nhởn nhơ chung một làng với bà cách thủ đô Nam Vang vài dặm nhưng không một tòa án nào truy tố hay kết án.
Với chủ trương “Dân tộc Khờ Me cần đào hố để chôn đi quá khứ” Hun Sen đã cản trở Liên Hiệp Quốc rất nhiều trong việc điều tra tội diệt chủng của chế độ Pol Pot. Hun Sen cản trở vì bản thân y cũng từng là một sĩ quan Khờ Me Đỏ. Hun Sen nhiệt tình với lý tưởng CS đến mức bỏ học theo Pol Pot khi còn trong tuổi thiếu niên. Nhiều chi tiết trong quảng thời gian từ 1975 đến 1979 của cuộc đời y vẫn còn trong vòng bí mật. Khi chôn quá khứ của Campuchia, Hun Sen muốn chôn đi quá khứ tội lỗi của mình.
Tình trạng kẻ sát nhân và gia đình những người bị sát hại vẫn còn sống chung làng, chung xóm, chung thành phố không chỉ phổ biến tại Campuchia nhưng cũng rất phổ biến tại Huế sau vụ Thảm sát Tết Mậu Thân 1968.
Số người bị giết trong vụ Thảm sát Tết Mậu Thân khác nhau tùy theo nguồn điều tra nhưng phần lớn công nhận số người bị giết lên đến nhiều ngàn người và “kẻ thù nhân dân” không chỉ là công chức chính quyền VNCH mà còn rất đông sinh viên, học sinh, phụ nữ, trẻ em và ngay cả một số giáo sư ngoại quốc. Ông Võ Văn Bằng, Nghị viên tỉnh Thừa Thiên và cũng là Trưởng Ban Truy Tìm và Cải Táng Nạn Nhân Cộng Sản Tết Mậu Thân, kể lại: “Các hố cách khoảng nhau. Một hố vào khoảng 10 đến 20 người. Trong các hố, người thì đứng, nào là nằm, nào là ngồi, lộn xộn. Các thi hài khi đào lên, thịt xương đã rã ra. Trên thi hài còn thấy những dây lạt trói lại, cả dây điện thoại nữa, trói thành chùm với nhau. Có lẽ, họ bị xô vào hố thành từng chùm. Một số người đầu bị vỡ hoặc bị lủng. Lủng là do bắn, vỡ là do cuốc xẻng.”
Tài liệu liên quan đến Thảm sát Tết Mậu Thân rất nhiều, từ điều tra của các nhà nghiên cứu nước ngoài cho đến các nhân chứng sống Việt Nam. Đến nay, thành phần được nghĩ đã gây ra biến cố đầy tang thương cho dân tộc Việt Nam này là những người Huế “nhảy núi”. Họ là những người bỏ trường, bỏ làng xóm, bỏ cố đô lên rừng theo CS và Tết Mậu Thân đã trở lại tàn sát chính đồng bào ruột thịt của mình. Họ là những kẻ vừa được giải thoát khỏi nhà giam Thừa Phủ đưa lên núi huấn luyện vài ngày rồi trở lại giết chết những kẻ bị nghi ngờ đã bỏ tù họ. Không giống quân đội chính quy tấn công Huế, những du kích nằm vùng, những thanh niên, sinh viên, học sinh là những người sinh ra và lớn lên ở Huế, thuộc từng tên phố tên đường, biết tên biết tuổi từng người. Họ lập danh sách và đến từng nhà lừa gạt người dân bằng cách “mời đi trình diện” rồi sẽ trả về nhà ăn Tết. Những người nhẹ dạ đi theo. Mà cho dù không nhẹ dạ cũng chẳng ai nghĩ mình sắp bị chôn sống chỉ vì làm chức liên gia trưởng của năm bảy gia đình, ấp trưởng một ngôi làng nhỏ, xã trưởng của vài trăm dân. Kết quả, từng nhóm, từng đoàn người lần lượt bị đem ra “tòa án nhân dân” và kết án tử hình.
Người “nhảy núi” nổi tiếng nhất là Hoàng Phủ Ngọc Tường.
Ngày 12 tháng 7 năm 1997, Hoàng Phủ Ngọc Tường trả lời câu hỏi của nhà văn Thụy Khuê về sự liên quan của ông đối với vụ Thảm sát Tết Mậu Thân: “Sự thực là tôi đã từ giã Huế lên rừng tham gia kháng chiến vào mùa hè năm 1966, và chỉ trở lại Huế sau ngày 26 tháng 3 năm 1975. Như thế nghĩa là trong thời điểm Mậu Thân 1968, tôi không có mặt ở Huế” và ông cũng thừa nhận Thảm sát Tết Mậu Thân là có thật chứ chẳng phải “Mỹ Ngụy” nào dàn dựng “Điều quan trọng còn lại tôi xin ngỏ bầy ở đây, với tư cách là một đứa con của Huế, đã ra đi và trở về, ấy là nỗi thống thiết tận đáy lòng mỗi khi tôi nghĩ về những tang tóc thê thảm mà nhiều gia đình người Huế đã phải gánh chịu, do hành động giết oan của quân nổi dậy trên mặt trận Huế năm Mậu Thân. Đó là một sai lầm không thể nào biện bác được, nhìn từ lương tâm dân tộc, và nhìn trên quan điểm chiến tranh cách mạng”.
Khi được hỏi ai là những người phải chịu trách nhiệm, Hoàng Phủ Ngọc Tường phát biểu “Nhưng tôi tin rằng đây là một sai lầm có tính cục bộ, từ phía những người lãnh đạo cuộc tấn công Mậu Thân ở Huế” và tiếp tục nêu thêm chi tiết chính Đại tá Lê Minh, tư lệnh chiến dịch Huế Mậu Thân thừa nhận trong tạp chí Sông Hương “Dù bởi lý do nào đi nữa, thì trách nhiệm vẫn thuộc về những người lãnh đạo mặt trận Mậu Thân, trước hết là trách nhiệm của tôi.”
Tóm lại, Hoàng Phủ Ngọc Tường trong buổi phỏng vấn dành cho nhà văn Thụy Khuê xác nhận ông ta không có mặt ở Huế trong suốt thời gian Huế bị CS chiếm đóng và những kẻ sát hại thường dân vô tội là do các “lãnh đạo cuộc tấn công Mậu Thân ở Huế” chủ trương.
Tuy nhiên 15 năm trước đó, ngày 29 tháng 2 năm 1982, trong buổi phỏng vấn truyền hình dài 15 phút dành cho hệ thống WGBH, Hoàng Phủ Ngọc Tường thừa nhận việc dư luận đang tố cáo ông là đúng, nghĩa là chính ông đã có mặt tại Huế: “Tôi đã đi trên những đường hẻm mà ban đêm tưởng là bùn, tôi mở ra bấm đèn lên thì toàn là máu... Nhất là những ngày cuối cùng khi chúng tôi rút ra...” và ông cho rằng một số người dân Huế chết thảm thương là do sự trả thù của chính người Huế với người Huế “chính nhân dân đã căm thù quá lâu, đó là những người đã bị chính nó tra tấn, chính nó đã làm cho tất cả gia đình phải bị đi ở tù ra ngoài đảo v.v... và đến khi cách mạng bùng lên họ được như là lấy lại cái thế của người mạnh thì họ đi tìm những kẻ đó để trừ như là trừ những con rắn độc mà từ lâu nay nếu còn sống thì nó sẽ tiếp tục nó gây tội ác trong chiến tranh.”
Nếu phân tích theo thời gian và diễn biến chính trị thế giới, đặc biệt sự sụp đổ của phong trào CS quốc tế, câu trả lời của Hoàng Phủ Ngọc Tường vào năm 1982 là thành thật và sát với thực tế Mậu Thân nhất. Trong giai đoạn chuyên chính vô sản vài năm sau 1975, không chỉ ông ta mà cả các lãnh đạo CSVN vẫn nghĩ “con đường tất yếu” là con đường “tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội”. Không có một thế lực nào cản trở sức chảy của “ba dòng thác cách mạng”. Vào thời điểm 1982, Hoàng Phủ Ngọc Tường chẳng những không sợ gì phải che giấu mà còn xem đó như một thành tích cần được nêu ra. Xem đoạn phim, khuôn mặt Hoàng Phủ Ngọc Tường đằng đằng sát khí khi diễn tả việc giết một viên chức VNCH: “chỉ lấy lại mạng sống của một người, giá đó rất nhẹ và công bằng”.
Thái độ đó hoàn toàn khác với giọng ôn tồn khi ông ta nhắc lại lời của Đại tá CS Lê Minh như thay cho chính mình 15 năm sau “bây giờ, là những người lãnh đạo kế nhiệm ở Huế, phải thi hành chính sách minh oan cho những gia đình nạn nhân Mậu Thân, trả lại công bằng trong sáng và những quyền công dân chính đáng cho thân nhân của họ”. Thời gian đổi thay, lịch sử đổi thay và con người cũng thay đổi. Không phải chỉ Hoàng Phủ Ngọc Tường mà cả những cựu lãnh đạo CS Đông Âu, một thời giết người không chút xót thương, sau 1990 cũng trả lời báo chí với giọng ngọt ngào như thế.
Nhiều bạn hữu của Hoàng Phủ Ngọc Tường như tác giả Ngô Minh viết trên talawas 2008, cho rằng Hoàng Phủ Ngọc Tường “trong suốt những năm lên “xanh” ở A Lưới, Hoàng Phủ Ngọc Tường không được phân công về thành phố hay đồng bằng một chuyến nào cả” mà không biết hay cố tình bỏ qua sự kiện 26 năm trước chính Hoàng Phủ Ngọc Tường đã xác nhận mình ở Huế với những tình tiết mắt thấy tai nghe của một người trong cuộc.
Hai buổi trả lời phỏng vấn hoàn toàn trái ngược chứng tỏ Hoàng Phủ Ngọc Tường phải có một khó khăn để giải thích sự liên hệ của mình đến vụ Thảm sát Mậu Thân. Lời phát biểu của ông cho thấy một điều, ngoại trừ trẻ em quá nhỏ, những người bị giết chắc chắn biết người giết mình là ai.
Không giống Hoàng Phủ Ngọc Tường mâu thuẫn, hai ông Nguyễn Đắc Xuân và Hoàng Phủ Ngọc Phan từ trên núi theo đoàn quân CS đánh vào Huế. Hai ông không từ chối điều này nhưng đều phủ nhận đã có liên hệ gì với Thảm sát Mậu Thân. Trong bài viết Nhân đọc bài "Trịnh Công Sơn - Những hoạt động nằm vùng” Hoàng Phủ Ngọc Phan khẳng định: “Còn tôi thì có theo chiến dịch về hoạt động ở Thành nội Huế nhưng tôi không hề giết ai cả, suốt gần 10 năm đi kháng chiến cũng không hề làm thiệt mạng một con thú trên rừng chứ đừng nói là con người.”
Nhà văn Nhã Ca kết án ông Nguyễn Đắc Xuân trong Giải Khăn Sô Cho Huế vì đã “đích tay đào một cái hố, bắt một bạn học cũ có xích mích từ trước ra đứng bên hố để xử tử” và ông Nguyễn Đắc Xuân đáp lại trong bài Hậu Quả Của “Cái Chết” của tôi: “Còn tôi, một sinh viên Phật tử mới thoát ly chưa đầy một năm rưởi, không có quyền hành gì, nếu tôi muốn làm những việc như Nhã Ca viết thì cũng không thể làm được. Không ai cho tôi làm. Nếu tôi tự ý làm, làm sao tôi có thể thoát được sự phê phán của đồng chí đồng sự của tôi, đặc biệt là những người sau nầy không còn đứng trong hàng ngũ kháng chiến nữa...”
Chuyện “thoát ly chưa đầy một năm rưỡi” không chứng minh được ông ta không có quyền giết người, trái lại cũng có thể giải thích ngược, càng tham gia trễ càng phải chứng tỏ nhiệt tình cách mạng cao độ, càng phải giết nhiều người, càng phải lập nhiều công. Nói thế không phải để đánh bồi thêm một người đã ngã nhưng cho thấy lời biện bạch của ông không thuyết phục.
Trong tinh thần “Lợi ích của sự ngờ” (Benefit of the doubt), tạm cho những lời người khác kể về các ông chưa đủ bằng chứng kết tội, tuy nhiên, các ông Hoàng Phủ Ngọc Phan và Nguyễn Đắc Xuân, những thành viên tích cực của phong trào đấu tranh đô thị, hoạt động 26 ngày trong lòng thành phố Huế bị rơi vào tay các ông với nhiều ngàn người dân vô tội bị giết bằng những cách dã man hơn cả bọn diệt chủng Pol Pot mà các ông nói rằng không biết gì, không thấy gì thì trẻ con ngây thơ cũng không tin được.
Và không chỉ ba ông Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Đắc Xuân, Hoàng Phủ Ngọc Phan mà cả thế hệ “nhảy núi” ở Huế trong đó rất nhiều nhà nghiên cứu văn hóa, nhà văn, nhà thơ, họa sĩ, nhạc sĩ cho đến nay vẫn không biết gì, không thấy gì, không viết gì về Thảm sát Tết Mậu Thân thì quả là chuyện lạ. Hãy thử đặt mình trong vị trí của gia đình các nạn nhân vụ Thảm sát Huế, các ông có nghĩ rằng chính Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn Đắc Xuân đã giết hoặc biết chắc ai đã giết thân nhân các ông các không? Chắc chắn là có, không thể có lời giải thích thứ ba.
Lẽ ra Thảm sát Tết Mậu Thân phải là nguồn thôi thúc cho nhiều tác phẩm văn học lớn nói lên sự đau khổ, sự chịu đựng tận cùng của đồng bào Huế nói riêng và dân tộc Việt Nam nói chung. Lẽ ra những người đang bị dư luận kết án, nếu thật sự không tham dự vào cuộc tàn sát, thay vì than mây khóc gió trong văn chương hay lao đầu vào cơm áo, nên dành phần còn lại của đời mình đi tìm cho ra cội nguồn gốc rễ để vừa giải oan cho đồng bào mà cũng minh oan cho chính mình. Gia đình nạn nhân còn đó, nhân chứng còn đó, hầm hố còn đó, bạn bè còn đó, chứng tích còn đó, chế độ còn đó. Có thể người đọc vì sự công phẫn chưa nguôi, sẽ không tin hết các điều các ông các bà viết nhưng nếu đúng rồi lịch sử sẽ tin. Nếu không làm thế, cơ chế độc tài này chắc chắn sẽ tàn lụi nhưng tên tuổi Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn Đắc Xuân, Nguyễn Thị Đoan Trinh v.v... mãi mãi vẫn là những dấu đen ngàn đời không phai.
Dư luận khắt khe nhưng không bất công. Suốt 42 năm, các ông các bà có rất nhiều cơ hội để làm sáng tỏ một sự kiện lịch sử mà các ông các bà từng tham dự, nhưng ngoại trừ việc phải trả lời vài buổi phỏng vấn rải rác đó đây, các ông các bà im lặng. Kết án lại những người kết án không phải là cách trả lời mà nhân dân Việt Nam đang muốn biết. Ông Nguyễn Đắc Xuân được gọi là “nhà Huế học” nhưng Huế không chỉ có sông Hương, núi Ngự, lăng tẩm, đền đài mà còn có Bãi Dâu, Khe Đá Mài, khu Gia Hội và hàng chục ngôi mồ tập thể khác. Đời sống của một dân tộc không chỉ gồm những thời đẹp đẽ, vinh quang mà còn cả những giai đoạn đau buồn, tủi nhục. Tại sao các ông các bà không viết? Phải chăng những người “nhảy núi” ở Huế cũng giống như Hun Sen hay tên Khờ Me Đỏ giết chồng bà Samrith Phum năm 1977, đang cố chôn đi quá khứ? Sự im lặng của các ông các bà không phải là một công án thiền mà là lời tự tố cáo lớn tiếng nhất.
Dân tộc Việt Nam đã trải qua nhiều thời kỳ suy vi và phân hóa nhưng sự kiện một số người dã tâm tàn sát nhiều ngàn người Việt khác trong chỉ vài tuần bằng các phương tiện phi nhân chưa từng có như ở Huế là lần đầu. Vết thương Mậu Thân sẽ không bao giờ lành một khi tội ác chưa được đưa ra ánh sáng. Nền tảng của hòa giải là công lý và sự thật chứ không phải che đậy và lãng quên.
Nhiều tác giả đã viết về Thảm sát Mậu Thân. Những dữ kiện trong bài viết này không có gì mới mà đã được nhắc đi nhắc lại. Dụng ý của kẻ viết bài này chỉ muốn nhấn mạnh một điều rằng, nhiều trong số những người “nhảy núi” còn sống ở Huế hay trong và cả ngoài nước, nhưng chắc không sống bao lâu nữa. Tuổi tác của các ông các bà đều trên dưới bảy mươi. Thời gian còn lại như tiếng chuông ngân đã quá dài. Tất cả sẽ là không. Các ông các bà ra đi không mang theo gì cả nhưng sẽ để lại rất nhiều. Vẫn biết con người khó tự kết án chính mình nhưng các ông, các bà vẫn còn nợ dân tộc Việt Nam, nhất là các thế hệ mai sau, câu trả lời cho cái chết của nhiều ngàn dân Huế vô tội.
Ngọn nến trước khi tắt thường bật sáng, vì tương lai dân tộc, các ông các bà hãy sáng lên sự thật một lần trước ngày chết .
Biến cố Tết Mậu Thân 1968: Trường hợp Lê Văn Hảo
Vinh Mỹ - "Than ôi! Đó không phải là sự thật lịch sử mà tôi chỉ là một con tin đã bị ở trong thế kẹt phải nhận lấy chức vụ để bảo tồn sự sống còn để mà mong có ngày về với vợ con thôi! Chớ tôi nói thật với anh vai trò của tôi trong Tết Mậu Thân là vai trò hoàn toàn thụ động, tôi chỉ ngồi trên núi để nghe đài, nghe tin tức... sự việc diễn biến như vậy thì mình theo thời cuộc thôi, mình phải theo cách mạng thôi, chớ không có cách nào khác. Anh thấy như vậy đó!..." - Lê Văn Hảo (trích trả lời phỏng vấn của Nguyễn An)
*
Vào dịp kỷ niệm 40 năm Tết Mậu Thân 1968, ông Nguyễn An, phóng viên đài RFA đã phỏng vấn và ghi lại ngày 2 tháng 2, năm 2008 những câu trả lời của ông Lê Văn Hảo về vai trò của ông với tư cách là chủ tịch Ủy ban Nhân dân Cách mạng Thừa Thiên - Huế trong biến cố đó. Đọc những câu trả lời lúc đó của ông Lê Văn Hảo, tôi nhớ lại những gì chính Lê Văn Hảo đã viết dưới dạng hồi ký đăng trên tập san tiếng Pháp Etudes vietnamiennes do Bác sĩ Nguyễn Khắc Viện xuất bản tại Hà nội năm 1973 mà tôi đọc đã lâu: “L’Itinéraire d’un intellectuel patrote”: Extraits des souvenirs du professeur Le Van Hao, le titre est de la Rédaction In: Huế, Passé et Présent ; Etudes Vietnamiennes No 37, 1973, pp. 133-200. Tìm đọc lại bài đó, tôi thấy có rất nhiều dị biệt nếu không nói là trái ngược hẳn nhau giữa những gì Lê Văn Hảo nói năm 2008 và những gì ông đã ghi lại trong hồi ký năm 1973. Phản ứng đầu tiên của tôi là liên tưởng đến trường hợp ông Hoàng Phủ Ngọc Tường. Ông Tường cũng có chuyện mâu thuẫn như thế và đã được nhiều người nói đến.
Nay đến ngày kỷ niệm 45 năm kỷ niệm biến cố đau thương đó của đất nước, đặc biệt của những nạn nhân vô tội xứ Huế, tôi thấy nhiều phim ảnh và bài viết được cộng sản tung ra nhằm chối bỏ những tội ác tày trời rành rành trước mắt các nhân chứng, trong đó nhiều người còn sống.
Không ai còn lạ chuyện cộng sản nói dối, có người cho là cộng sản không nói dối, mà cộng sản chính là sự dối trá, là hiện thân của dối trá “mendacium incarnatum”. Sự thật của họ là một sự dối trá được lặp đi lặp lại nhiều lần. Khi nhà báo Tôn Vy quả quyết một cách xanh rờn rằng sở dĩ có vụ Tổng tấn công Mậu Thân là vì Việt Nam Cộng Hòa đã “vi phạm một cách lỗ liệu thỏa thuận hưu chiến Tết” (ibid p.104), thì ông cho đó là một sự thật secundum cộng sản. Mỗi tranh luận trở thành vô ích. Biết như thế, nhưng tôi cũng xin trích dẫn cả hai bài của ông Lê Văn Hảo để góp dữ kiện cho bạn đọc kiểm chứng và bình luận,
I. Tết Mậu Thân (Lê Văn Hao 1973)
1. Lê Văn Hảo có ở Huế không?
Hãy nghe tác giả hồi ký kể lại quang cảnh nhộn nhịp ở Huế cũng như cảm giác tâm tình của mình ngày Tết Mậu Thân 1968:
“Tuy nhiên, mùa xuân 1968 sắp đến nơi. Một cái gì sắp xảy ra, người dân cảm thấy như thế. Trong thâm tâm chúng tôi có những cảm giác khó tả”.
“Đến gần Tết, người vào người ra tấp nập. Nhiều người kéo ra khỏi thành Huế. Nhiều đoàn người từ các quận tỉnh Thừa Thiên tiến vào thành phố. Chợ hoa ở bên cầu Trường tiền đông nghịt: hoa đào vàng lẫn hoa thược dược đỏ. Thành phố nhộn nhịp hơn những năm trước, có cái gì đó bất thường, Tuy nhiên chúng tôi không thể ngờ rằng chúng tôi sắp có một cái Tết khó quên, trong một khí thế phấn khởi như năm 1789, khi Quang Trung đại thắng quân xâm lăng nhà Thanh”. (sic!) (ibid p.196
2. Lê Văn Hảo, chủ tịch Liên Minh đã làm gì ở Huế?
“Chỉ vài giờ sau khi tấn công, Lực Lượng Cách Mạng và dân chúng đã làm chủ thành phố. Cờ Mặt trận phất phới trên kỳ đài thành nội thay cho cờ bù nhìn. Đó là ngày 31 tháng 1, 1968 vào khoảng 8 giờ sáng. Cờ của Liên Minh phất phới bên cạnh cờ của Mặt trận trên các công sở. Liên Minh kêu gọi dân chúng cùng nổi dậy để dành lại thành phố bị kẻ thù chiếm đóng từ 20 năm nay.” (ibid p.196)
3.- Hội nghị nào và ở đâu đã bầu Lê Văn Hảo làm chủ tịch UBNDCM Thừa Thiên Huế?
“Lực Lượng Cách Mạng Huế cùng với Liên Minh họp hội nghị để thành lập một Chính Quyền Cách Mạng, với mục đích tổ chức việc quản trị thành phố và chuẩn bị chống lại địch.
Ngày 15 tháng 2 năm 1968 Ủy Ban Nhân Dân Cách Mạng Thừa Thiên Huế được thành lập và tôi đảm nhiệm chức vụ chủ tịch.”
Tuy nhiên chiến đấu đang diễn ra rất khốc liệt. Những gương can đảm và xả kỷ làm chúng tôi phấn khởi trong những ngày anh dũng này.
Sau 23 ngày chiến đấu kịch liệt, lực lượng cách mạng phải bỏ thành phố để tránh cho Huế khỏi phải tiêu diệt theo kiểu diệt chủng của Mỹ. (ibid p.197)
4.- Lê Văn Hảo rút lui từ Huế ra vùng giải phóng
“Trên đường từ Huế đến vùng giải phóng, tự mắt tôi xem thấy những tội ác của bọn xâm lược Mỹ. Những làng như La Chu, Van xa, Thanh Luong (huyện Huong Tra) dọc quốc lộ số 1 trong số nhiều làng khác bị san bình địa. Vô số hố bom đã thay chỗ cho nhà cửa. Ỏ trung tâm thành phố, bọn xâm lược Mỹ đã tưới lên trên những xóm đông dân cư các thứ bom bi, bom đốt, bom nổ, bom phosphore, bom gaz. Hàng vạn ngôi nhà bị thiêu hủy, hàng nghìn người bị giết hay bị thương. (p. 197)
Những năm sau này, mặc dầu Mỹ ồ ạt đổ quân vào Việt nan, tôi không hoàn toàn tin là Mỹ diệt chủng, nghĩ rằng trong chiến tranh không tránh khỏi đánh giết và tàn phá…. tôi không tin là họ ném bom bừa bãi vói mục đích tiêu diệt. Nhưng bây giờ tôi có thể quả quyết là Mỹ đã làm như thế. Tội diệt chủng của bọn côn đồ (gangsters) Mỹ là một điều hiển nhiên. (ibid p.198).
“Khi vừa tới vùng giải phóng, tôi gặp lại nhiều người quen thuộc kể cả những người bạn và học sinh của tôi. [...] những nhà cách mạng mà tôi gặp ở Huế tỏ ra rất thân thiện cởi mở trong khu giải phóng. Chúng tôi cùng cảm thông trong tình yêu quốc gia trong sự căm thù Mỹ và bè lũ tay sai trong một bầu khí đấu tranh sôi sục cho thắng lợi quốc gia (ibid p.198)
II. Tết Mậu Thân Huế (Lê Văn Hảo 2008)
Lê Văn Hảo 2008: Sau khi tôi nhận chức đó (chủ tịch Ủy ban Nhân dân Cách mạng Thừa Thiên - Huế) rồi thì có nhiều cuộc họp và họ nói cho tôi biết thế nào là chủ nghĩa CS, thế nào là chủ nghĩa Max Lenin, thế nào là chính quyền cách mạng, thế nào là đấu tranh giai cấp. Họ cũng làm cho tôi một loạt các bài học vỡ lòng để cho tôi biết chức vụ đó thì tôi phải nên làm thế nào để cho xứng đáng với chức vụ đó.
Lời bàn: UBNDCM đã được Liên Minh hội họp với Lực Lượng Cách Mạng Huế lập ra, và bầu Lê Văn Hảo làm chủ tịch. (vừa chủ tịch Liên Minh vừa chủ tịch Ủy ban Nhân Dân Cách Mạng) để tổ chức việc cai trị thành phố. Bầu rồi lại đem lên núi (hay là bầu trên núi?) cho học abc chủ nghĩa cộng sản! Nghe thế có được không?!
Nguyễn An: Thưa Ông, như vậy tức là Mậu Thân sau khi họ tấn công Huế thì sau đó họ đưa ông về?
Lê Văn Hảo 2008: Không! Tôi không có về lúc đó, lúc đấy là chỉ có mấy anh CS về đánh nhau ở dưới thành phố thôi, chớ còn tôi họ đâu có dám đưa tôi về! Họ biết rằng khi tôi nhận thì tôi cũng miễn cưởng mà nếu đưa tôi về thì tôi chắc cũng chuồn luôn thì họ đâu có dám đưa tôi về. Trong tất cả khi nổ ra Mậu Thân tức là trong 26 ngày đêm CS chiếm thành phố Huế thì tôi ngồi trên núi để nghe đài phát thanh suốt ngày, tất cả những gì xảy ra dưới Huế tôi chỉ biết qua đài phát thanh của Hà Nội và đài phát thanh giải phóng.
Than ôi! Đó không phải là sự thật lịch sử mà tôi chỉ là một con tin đã bị ở trong thế kẹt phải nhận lấy chức vụ để bảo tồn sự sống còn để mà mong có ngày về với vợ con thôi! Chớ tôi nói thật với anh vai trò của tôi trong Tết Mậu Thân là vai trò hoàn toàn thụ động, tôi chỉ ngồi trên núi để nghe đài, nghe tin tức.
Lời bàn: Trước Tết, trong Tết Mậu Thân, Lê Văn Hảo đều ở Huế, và chỉ rời Huế với tàn quân cộng sản (xem I. 1, 2, 3&4 trên đây)
Không thể Liên Minh họp tại Huế với Lực Lượng Cách Mạng bầu chủ tịch Lên Minh là Lê Văn Hảo làm chủ tịch UBNDCM để lo việc cai trị thành phố mà Lê Văn Hảo lại ở trên núi xa Huế đến 50 km.
Nguyễn An: Tức là ông không biết những cái gì thêm ngoài những điều mà đài phát thanh nói?
Lê Văn Hảo 2008: Tôi không thể biết được bởi vì tôi không có mặt ở Huế mà nó đâu có dám để cho tôi về Huế vì anh biết khi nó đề nghị một chức vụ như vậy là cả một sự áp đặt. Nó nói là anh phải nhận, nếu anh không nhận thì anh cũng không còn đường về thì cả một sự đe dọa. Anh có thấy tính chất đe dọa đàng sau lời đề nghị đó không?
Lời bàn: Như trên (xem I 2, 3 ở trên)
Nguyễn An: Đây là một chi tiết rất là mới bởi vì hồi xưa cho đến bây giờ người ta cứ tưởng rằng là những đoàn quân họ chiếm đóng Huế hai mươi mấy ngày đó là Ông về trực tiếp điều hành công việc ở đó, thì hóa ra hoàn toàn không có chuyện này!
Lê Văn Hảo 2008: Than ôi! Đó không phải là sự thật lịch sử mà tôi chỉ là một con tin đã bị ở trong thế kẹt phải nhận lấy chức vụ để bảo tồn sự sống còn để mà mong có ngày về với vợ con thôi! Chớ tôi nói thật với anh vai trò của tôi trong Tết Mậu Thân là vai trò hoàn toàn thụ động, tôi chỉ ngồi trên núi để nghe đài, nghe tin tức.
Rồi lâu lâu mấy ông như: Trần Văn Quang và các ông lãnh đạo khác ở Thừa Thiên, Huế ghé qua thăm và an ủi tôi và nói là sự việc diễn biến như vậy thì mình theo thời cuộc thôi, mình phải theo cách mạng thôi, chớ không có cách nào khác. Anh thấy như vậy đó!
Lời bàn: Tại sao cộng sản bắt Lê Văn Hảo làm con tin, con tin để đòi hỏi gì? trong khi Lê Văn Hảo hoàn toàn đứng về phe cách mạng!
Nguyễn An: Tức là cũng không có ai báo cáo với Ông tình hình như thế nào với tư cách là chủ tịch UBND hết?
Lê Văn Hảo 2008: Có chứ! Tức là trong khi đánh nhau và chiếm thành phố Huế như vậy thì chúng có điện đài theo dõi thì cũng nắm được tình hình lắm chớ, chớ đâu có phải là không biết gì!
Lời bàn: Câu hỏi và câu trả lời đều lạc lõng khi đã chứng Minh Lê Văn Hảo ở Huế không phải ở trên núi. Ông vừa là chủ tịch Liên Minh, vừa là chủ tịch UBNDCM (thị trưởng kiêm tỉnh trưởng).
Nguyễn An: Sau khi rút ra khỏi Huế rồi, thì ông vẫn tiếp tục trên núi hay là ông đi theo họ?
Lê Văn Hảo 2008: Dạ thưa tôi vẫn tiếp tục ở trên núi và lúc đấy thì quân đội Hoa Kỳ và quân đội VNCH đã phản ứng rất mạnh bằng cách ném bom rất dữ dội các vùng giải phóng chung quanh các thành phố lớn, thú thật với anh là chúng tôi sống toàn trong các hang núi, nếu ra ngoài thì cũng ăn bom như thường vì tình hình quá căng thẳng, bom đạn quá sức tưởng tượng.
Lời bàn: Khó có thể nói Lê Văn Hảo còn ở trên núi khi Việt cộng rời khỏi Huế, khi nghe Lê Văn Hảo 1973 kể hành trình của mình từ Huế ra vùng giải phóng! (xem I, 4)
Nguyễn An: Hoàn cảnh đưa đẩy họ đến núi đó có tương tự như ông không?
Lê Văn Hảo 2008: Giống hệt như tôi! Vị nào cũng được mời họp hết. Riêng cụ Thích Đôn Hậu thì cụ bị bắt cóc lúc mà quân giải phóng đã chiếm được thành phố Huế rồi thì họ mời cụ lên võng để đi họp thì nó cũng võng cụ lên trên núi luôn. Bà Nguyễn Đình Chi cũng trường hợp như vậy, tức là mời bà đi họp rồi võng Bà lên núi luôn.
Lời bàn: Thích Đôn Hậu có mặt ở Huế “khi quân giải phóng đã chiếm được thành phố Huế” họ võng cụ đi họp Liên Minh. Bên phía Liên Minh, Lê Văn Hảo là chủ tịch, Hoàng Phủ Ngọc Tường là Tổng thư ký. Ông nầy đã thú nhận một cách gián tiếp: “Với tư cách Tổng thư ký, tôi luôn luôn có mặt bên cạnh các vị kể trên để làm công tác chính trị của Liên Minh”. Thế tức là ở đâu có Thích Đôn Hậu ở đó có ông Tường và ông Hảo. Cuộc họp phải xảy ra ở Huế vì trong khi"bom đạn quá sức tưởng tượng » như Lê Văn Hảo nói mà CS võng (đi bộ) Thích Đôn Hậu và bà Nguyễn Đinh Chi (võng ông và võng bà!) lên núi cách 50 km để họp thì là chuyện lạ!
Nguyễn An: Như vậy thì ông sinh hoạt ở trong đó bao lâu thì biết rằng là MTGPMN chỉ là chi nhánh của Mặt trận Tổ quốc ở miền Nam thôi?
Lê Văn Hảo 2008: Nói thật anh, việc ấy thì tôi biết ngay khi tôi lên trên núi thì tôi biết MTGP là một trò bịp bợm, tức là một tổ chức hữu danh vô thực, nó là tổ chức của CS thôi, gọi là Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam nhưng mà tất cả đều do Hà Nội chỉ đạo thôi. Việc đó tôi biết ngay và họ cũng không dấu anh ạ! Lúc đó mình ở trong tay họ rồi nên họ cũng không dấu.
Lời bàn: Lại chuyện lên núi. Trong hồi ký, Lê Văn Hảo chỉ lên núi có một lần là khi ông rút lui Huế với tàn quân cộng sản còn chuyện ông có biết MTGPMN có là cộng săn không thì đọc hồi ký của ông đã rõ.
Để kết luận, tôi xin mượn lời sau đây của ông Trần Trung Đạo trong bài viết Hãy nói trước ngày chết:
“Dụng ý của kẻ viết bài này chỉ muốn nhấn mạnh một điều rằng, nhiều trong số những người “nhảy núi” còn sống ở Huế hay trong và cả ngoài nước, nhưng chắc không sống bao lâu nữa. Tuổi tác của các ông các bà đều trên dưới bảy mươi. Thời gian còn lại như tiếng chuông ngân đã quá dài. Tất cả sẽ là không. Các ông các bà ra đi không mang theo gì cả nhưng sẽ để lại rất nhiều. Vẫn biết con người khó tự kết án chính mình nhưng các ông, các bà vẫn còn nợ dân tộc Việt Nam, nhất là các thế hệ mai sau, câu trả lời cho cái chết của nhiều ngàn dân Huế vô tội.
Ngọn nến trước khi tắt thường bật sáng, vì tương lai dân tộc, các ông các bà hãy sáng lên sự thật một lần trước ngày chết.”
Với những tên VC ngoan cố chối tội, chúng vẫn phải đối diện Tòa án luơng tâm mỗi đêm, khi nghĩ về tội ác tày trời do chúng gây ra. Và khi chúng kề cận sự chết. Khi ấy nỗi sợ hãi sẽ gấp ngàn lần vì đã chối bỏ sự thật.
ReplyDeleteHãy nói thật! Và chỉ có sự thật. Là liều thuốc an thần cuối cùng cho những tên đồ tể.
Người Huế nói riêng và người dân miền Nam là nạn nhân của một cái Tết mà những người cộng sản miền bắc đặt bút kí hưu chiến trong mấy ngày Tết đã vi phạm. Cũng như tin vào lời họ khi chiếm được Huế nếu ra đầu thú thì sẻ được cho đi học tập và trả về nhà cùng với vợ con. Nhưng tất cả những đều ấy đều xảy ra ngược lại. Tiếng pháo đón giao thừa hòa lẫn tiếng súng tàn sát dân lành vô tội, những người bị bắt hay ra đầu thú với quân cách mạng đều bị chôn sống chung quanh Huế. Sự dối trá của cộng sản làm cho nhiều cái chết oan khiêng của Huế vẫn còn cho đến hôm nay và mãi mãi sau này mỗi độ xuân về. Những vị còn sống đem gươm đao về xóm làng giết đồng bào mình thời tuổi trẻ, gây cho Huế bao nỗi tan thương. Họ và Con cháu sẽ bị ngàn đời nguyền rủa. Những nỗi oan khiêng đó vẫn theo họ khi mà sự thật chưa bị giải bày, khi họ chưa biết ăn năn sám hối lỗi lầm trong quá khứ.
ReplyDeleteHòang phủ ngọc Tường, Hoàng phủ ngọc Phan, Nguyễn đắc Xuân, Lê văn Hảo, Bà Nguyễn đình Chi... sẽ không ra đi dể dàng vì những nỗi OAN KHIÊNG của Huế vẫn còn đó.